Trang tin điện tử tuổi trẻ huyện Hiệp Đức, Huyện đoàn, Hội liên hiệp thanh niên, Hội đồng đội

http://tuoitrehiepduc.vn


Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 35 năm thành lập huyện Hiệp Đức (25/2/1986-25/2/2021)

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 35 NĂM THÀNH LẬP HUYỆN (25/02/1986-25/02/2021)
Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 35 năm thành lập huyện Hiệp Đức (25/2/1986-25/2/2021)
        I. Đặc điểm tình hình và những thành tựu chủ yếu trong 35 năm xây dựng và phát triển
       1. Đặc điểm, tình hình
      Ngày 25/02/1986, huyện Hiệp Đức được thành lập theo Quyết định số 289-QĐ/HĐBT, ngày 31/12/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) trên cơ sở sáp nhập các xã của 3 huyện: Quế Sơn (Quế Thọ, Quế Tân) Thăng Bình (Thăng Phước, Bình Lâm) và Phước Sơn (Phước Gia, Phước Trà). Diện tích tự nhiên 48.649 ha, dân số 27.290 người gồm các thành phần dân tộc: Kinh, Ca-dong, Bhnoong và một ít đồng bào Thái, Mường, Ê-đê...cùng chung sống. Tuy là vùng đất bán sơn địa, địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi nhiều đồi núi, sông suối hiểm trở; thời tiết và thiên tai khắc nghiệt, đời sống nhân dân khó khăn, nhưng đây cũng là vùng đất có bề dày về lịch sử, văn hoá và truyền thống yêu nước lâu đời. Đến nay, toàn huyện có 11 xã, thị trấn, trong đó có 3 xã vùng cao (Phước Gia, Phước Trà và Sông Trà).
       Huyện được thành lập trong một thời điểm có ý nghĩa đặc biệt, là năm diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện. Đường lối đổi mới của Đảng đã mở ra trang sử mới trong sự nghiệp xây dựng huyện nhà, tạo niềm tin tưởng, phấn khởi cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn trên bước chuyển mình từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
35 năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hiệp Đức đã không ngừng kế thừa, phát huy truyền thống anh hùng cách mạng, nêu cao tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu, tích cực tranh thủ sự trợ giúp của Trung ương, của tỉnh để từng bước xây dựng huyện ngày càng phát triển toàn diện và đạt nhiều thành tựu trên các lĩnh vực.
        2. Những thành tựu chủ yếu qua 35 năm xây dựng và phát triển
       2.1. Lĩnh vực kinh tế
     Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, nông - lâm - thủy sản chiếm tỷ trọng 26,71%, công nghiệp - xây dựng 45,04% thương mại - dịch vụ 28,25%. Tính đến cuối năm 2020, thu nhập bình quân đầu người khoảng 37,13 triệu đồng/người/năm. Nhiều mô hình trồng trọt, chăn nuôi có hiệu quả với năng suất, chất lượng cao. So kết quả năm 1986 với 2020, năng suất lúa tăng từ 12 tạ/ha lên hơn 55 tạ/ha; ngô tăng từ 7,4 tạ/ha lên 51,76 tạ/ha; tổng sản lượng lương thực có hạt cả năm tăng từ 2.873,9 tấn lên 13.587,7 tấn, tăng gấp 4,73 lần. Trong năm 2020, giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản toàn ngành ước đạt 517,457 tỷ đồng.
      Trong quy hoạch phát triển cụm công nghiệp tỉnh Quảng Nam giai đoạn đến 2035, huyện Hiệp Đức có 13 cụm công nghiệp đã được phê duyệt với tổng diện tích 334,08 ha, định hướng phát triển các ngành nghề có giá trị gia tăng cao và phục vụ nông nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến sâu các sản phẩm nông – lâm nghiệp, sản xuất phân bón, chế biến thức ăn gia súc, may công nghiệp…Đến nay, một số cụm công nghiệp đã được lấp đầy[1]. Có 8 dự án đã đi vào hoạt động với tổng vốn đăng ký hơn 228 tỷ; tổng vốn đầu tư hơn 190 tỷ đồng. Giải quyết việc làm cho gần 600 lao động tại địa phương. Những kết quả trên đã góp phần nâng tổng giá trị sản xuất trên lĩnh vực công nghiệp và xây dựng của huyện giai đoạn 2015-2020 đạt 632 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm 17,44%. Hiện nay, các ngành của huyện và các địa phương đang tích cực phối hợp với các nhà đầu tư để hoàn tất các hồ sơ, thủ tục, triển khai xây dựng và sớm đưa vào hoạt động các dự án đầu tư vào các cụm công nghiệp với tổng nguồn vốn đăng ký của các dự án trên là hơn 2.000 tỷ đồng, khi đi vào hoạt động, sẽ giải quyết việc làm trực tiếp cho hơn 2.500 lao động tại địa phương.
      - Thương mại - dịch vụ được mở rộng và tăng trưởng khá, với hơn 1.520 cơ sở kinh doanh, giải quyết việc làm cho hơn 2.000 lao động. Mạng lưới thương mại được mở rộng đến hầu hết các xã trong huyện, chợ Hiệp Đức, chợ Việt An được nâng cấp, xây mới, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ vận tải đã đáp ứng nhu cầu mua bán và lưu thông hàng hóa, đi lại trên địa bàn. Đã quy hoạch, xây dựng một số điểm du lịch sinh thái, văn hóa- lịch sử; đưa vào khai thác sử dụng hiệu quả như Khu Di tích Khu 5, đường vào điểm du lịch Suối Cái. Tổng giá trị sản xuất thương mại - dịch vụ năm 2020 đạt 709,3 tỷ đồng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt trên 500 tỷ đồng/năm.
       2.2. Kết cấu hạ tầng được đầu tư, xây dựng khang trang với nhiều công trình có quy mô lớn, trọng yếu, mang tính đột phá, liên kết phát triển vùng như QL 14E, đường Đông Trường Sơn, đường Quế Bình - Quế Lưu - Phước Gia, đường Tân An - Trà Linh, đường Quế Thọ - Bình Sơn, đường Sông Trà - Phước Trà, cầu treo Tam Cấp, Bà Chầu, Trà Nô, Cầu Trà Linh, Cầu Sông Khang, Cầu Ồ Ồ...giúp rút ngắn khoảng cách giữa các vùng miền, tạo thuận lợi giao lưu văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng giao thương với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh. Hệ thống đường liên thôn, liên xóm được bê tông hóa. Nhiều công trình thủy lợi có quy mô lớn được đầu tư như: hồ Việt An, Bình Hòa, Tam Bảo, Bà Sơn, An Tây… đảm bảo đảm bảo nước tưới thông suốt trong vụ. Điện lưới quốc gia đã phủ kín các thôn với tỷ lệ hộ dùng điện đạt trên 99%. Mạng lưới trường học, y tế, các cơ quan hành chính của huyện và xã được đầu tư xây mới, kiên cố, khang trang. Trụ sở làm việc của 11/11 xã, thị trấn được kiên cố, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay.
        2.3. Xây dựng nông thôn mới và đô thị đạt kết quả khá toàn diện, tập trung sâu vào phát triển sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị,               Chương trình mỗi xã một sản phẩm... bước đầu tạo được sản phẩm chất lượng để cung ứng cho thị trường, có 05 sản phẩm được chứng nhận đạt tiêu chuẩn OCOP[2]. Đến nay, đã xây dựng được 05 xã đạt chuẩn Nông thôn mới[3], đạt 4 khu dân cư Nông thôn mới kiểu mẫu[4]. Tổng nguồn vốn đầu tư cho Chương trình gần 138 tỷ đồng; trong đó, Nhân dân đóng góp hơn 7,4 tỷ đồng.
Về xây dựng đô thị, đã định hướng và xúc tiến các bước đầu tư phát triển đô thị Việt An, đô thị Sông Trà; điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, tiếp tục đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng và quản lý trật tự đô thị Tân Bình gắn với đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mọi tầng lớp Nhân dân trong thực hiện nếp sống văn hóa, văn minh đô thị. Tổng vốn đầu tư xây dựng đô thị Tân An ước đạt 230 tỷ đồng.
       2.4. Lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục - thể thao có bước phát triển toàn diện cả chiều rộng, lẫn chiều sâu, đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Các thiết chế vǎn hóa ở cơ sở được đầu tư, nâng cấp và phát huy hiệu quả sử dụng. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được đẩy mạnh với nhiều chuyển biến tích cực. Đến nay, có 09 xã, thị trấn đạt chuẩn văn hóa, có 91% số thôn, khối phố, 94% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và 94% hộ gia đình đạt chuẩn văn hóa. Phong trào văn nghệ, thể dục - thể thao có chiều hướng phát triển tốt, nhất là các hoạt động văn nghệ quần chúng và một số môn thể thao truyền thống, thể thao thành tích cao từng bước được đầu tư. Công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống được chú trọng; khôi phục có hiệu quả một số loại hình nghệ thuật, lễ hội, thể thao truyền thống như: Múa cồng chiêng, hát dân ca, đua thuyền... góp phần nâng cao giá trị giáo dục truyền thống, đạo đức, lối sống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết trong Nhân dân.
         2.5. Sự nghiệp giáo dục được quan tâm đầu tư đồng bộ đều, nâng cao cả về chất lượng giảng dạy lẫn xây dựng, hoàn thiện cơ sở vật chất. Giáo dục đại trà lẫn mũi nhọn có bước chuyển biến rõ nét, số học sinh tốt nghiệp các cấp, học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh hằng năm đều tăng. Chất lượng đội ngũ nhà giáo được nâng lên, với 89,4% giáo viên các cấp học đạt trình độ chuyên môn trên chuẩn; viên chức quản lý trường học có trình độ trung cấp chính trị trở lên chiếm 96,6%. Tỷ lệ kiên cố hóa phòng học cấp mầm non đạt 73,26%, cấp tiểu học đạt 83,85%, cấp trung học cơ sở đạt 99,1%. Về trường đạt chuẩn quốc gia có 11 trường đạt mức độ 1 và 04 trường đạt mức độ 2. Huyện đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức 3, xóa mù chữ mức 2; THCS mức 2 và duy trì tốt kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.
      2.6. Hoạt động y tế và chăm sóc sức khỏe Nhân dân có nhiều tiến bộ. Mạng lưới y tế được đầu tư, nâng cấp; chất lượng đội ngũ y tế được nâng lên, đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh. Trung tâm y tế huyện đạt chuẩn Bệnh viện hạng III về cơ sở vật chất. Đội ngũ ngành y tế hiện có 181 người (năm 1986 có 32 người), trong đó có 27 bác sỹ và 09 bác sĩ chuyên khoa; 100% số xã, thị trấn có trạm y tế; 7/11 xã, thị trấn có bác sỹ về làm việc, bình quân 6,3 bác sĩ/vạn dân; 100% thôn, khối phố có đội ngũ nhân viên y tế; 10/11 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Triển khai đồng bộ, hiệu quả công tác phòng chống dịch bệnh, các chương trình mục tiêu y tế quốc gia. Đặc biệt, huyện đã sớm thanh toán bệnh phong (năm 2000) và trong 15 năm trở lại đây các bệnh xã hội như sốt rét, bướu cổ... hầu như không xảy ra. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95,07% so với tổng dân số. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh 99,2%. Hằng năm, trẻ em dưới 01 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin đạt 100%. Trẻ em dưới 05 tuổi suy dinh dưỡng ngày càng giảm thấp, từ trên 40% (năm 1986) giảm còn 8,83% về cân nặng và 15,06% về chiều cao, tăng dân số tự nhiên từ 2,22% giảm còn 0,81%/năm.
        2.7. Chính sách đối với người có công và công tác an sinh xã hội được triển khai nghiêm túc, đúng đối tượng, tạo hiệu ứng tốt trong xã hội. Toàn huyện hiện có 1.067 đối tượng người có công và có 3.019 đối tượng hưởng bảo trợ xã hội, hộ gia đình chăm sóc người khuyết tật nặng đang hưởng trợ cấp hằng tháng. Quan tâm xây nhà tình nghĩa cho đối tượng chính sách, hiện nay không còn đối tượng chính sách phải ở nhà tạm; có trên 97,3% hộ gia đình người có công cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình ở khu dân cư; 100% Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống được các cơ quan, đơn vị nhận phụng dưỡng đến suốt đời[5]… Hệ thống nghĩa trang liệt sỹ các xã được đầu tư xây mới, nâng cấp khang trang, sạch đẹp. Đặc biệt, đã đầu tư xây dựng Đền liệt sỹ huyện với tổng nguồn vốn gần 30 tỷ đồng. Công trình hoàn thành đã thỏa lòng mong ước của Đảng bộ và nhân dân huyện nhà, là nơi để tri ân các anh hùng liệt sỹ đã và giáo dục truyền thống cách mạng của quê hương cho thế hệ hôm nay và mai sau.  
      Công tác giảm nghèo và giải quyết việc làm đạt kết quả tích cực; tỷ lệ hộ nghèo giảm thấp đáng kể[6]. Bình quân hằng năm, tư vấn giới thiệu việc làm cho 1.000 lượt lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 56,89%.
       Các xã vùng cao, vùng khó khăn được ưu tiên đầu tư theo cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là trên lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất nông - lâm nghiệp, xây dựng nhà ở, nước sinh hoạt, hỗ trợ về y tế, giáo dục; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ... Nhờ đó đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao được cải thiện một cách rõ nét, ổn định và không còn tình trạng du canh, du cư; các phong tục tập quán lạc hậu từng bước được đẩy lùi.
      Các phong trào thi đua yêu nước được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả quan trọng. Qua phong trào, huyện Hiệp Đức được tặng Huân chương Lao động Hạng Nhì; có nhiều tập thể và cá nhân được Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh tặng Huân chương Lao động, Cờ, Bằng khen và công nhận chiến sĩ thi đua...
       2.8. Quốc phòng, quân sự địa phương, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; xây dựng LLVT ngày càng vững mạnh cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, 100% Chỉ huy trưởng Quân sự xã, thị trấn có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên và được cơ cấu vào cấp ủy cùng cấp; 100% xã, thị trấn đã thành lập chi bộ quân sự và có cấp ủy, tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ chiếm 29,05%; các xã, thị trấn trọng điểm về quốc phòng, an ninh đều thành lập Tiểu đội dân quân thường trực. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng huyện thành khu vực phòng thủ cơ bản, liên hoàn, vững chắc, gắn kinh tế xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Công tác hậu phương quân đội, phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, xây dựng thôn, tổ, hộ an toàn luôn được chú trọng, nhiệm vụ tuần tra, “sẵn sàng chiến đấu” bảo đảm, giao quân hằng năm đạt chỉ tiêu.
        Lực lượng công an huyện và cơ sở được củng cố, kiện toàn; 100% xã, thị trấn được bố trí công an chính quy. Phát huy tốt vai trò nòng cốt của lực lượng công an trong công tác đấu tranh trấn áp tội phạm, tệ nạn xã hội, trật tự an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ. Thực hiện có hiệu quả Đề án khu dân cư tự quản về an ninh trật tự và phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Qua đó, huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tranh thủ được sự ủng hộ của Nhân dân trong phát hiện, tố giác, truy bắt tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để bị động, bất ngờ. Năm 2020, có 90,5% cơ quan, đơn vị, 90,9% xã, thị trấn, 95,6% khu dân cư; 95,7% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn “An toàn về an ninh trật tự”.  
      Các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thực hiện đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội với bình quân trên 98% vụ việc thụ lý được xử lý hằng năm. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân có bước chuyển biến tích cực; tiếp nhận và giải quyết kịp thời, dứt điểm nhiều trường hợp vướng mắc, không để xảy ra khiếu kiện đông người, vượt cấp, góp phần tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
       2.9. Công tác xây dựng chính quyền có nhiều đổi mới, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong tình hình hiện nay. Vai trò giám sát của HĐND, hiệu lực quản lý, điều hành của UBND các cấp được phát huy. Dân chủ được mở rộng, từng bước thực hiện tốt hơn phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Công tác cải cách hành đạt kết quả tốt. Hoàn thành việc xây dựng khu Trung tâm hành chính và bố trí các cơ quan chuyên môn vào làm việc nền nếp, hiệu quả; hệ thống một cửa được trang bị đầy đủ trang thiết bị, cán bộ, công chức có trình độ năng lực chuyên môn tốt, lề lối, tác phong làm việc khoa học, thái độ ứng xử chuẩn mực. Thực hiện nghiêm lịch tiếp công dân định kỳ của lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy để đối thoại, giải quyết những những vấn đề bức xúc, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân; đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính qua dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo giải quyết hồ sơ kịp thời, chính xác, đúng quy định, từng bước nâng cao hiệu quả phục vụ và sự hài lòng cho người dân.
       2.10. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể ngày càng mở rộng đều khắp các địa bàn dân cư, thôn, tổ; thực sự trở thành cầu nối giữa Nhân dân với Đảng. Thực hiện có hiệu quả việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và các hình thức tập hợp quần chúng, chú trọng hướng về cơ sở; đi sâu tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân, quan tâm đến lợi ích của quần chúng và cộng đồng xã hội, nắm được những khó khăn vướng mắc, bức xúc nảy sinh từ đời sống, kịp thời phản ánh và cùng với Đảng, chính quyền tập trung giải quyết ngay từ cơ sở. Qua đó, tạo được niềm tin và thu hút đông đảo đoàn, hội viên, các tầng lớp nhân dân tham gia vào các chương trình phát triển KT - XH, phát huy được tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, tình làng nghĩa xóm, hăng say thi đua lao động sản xuất.
       2.11. Công tác xây dựng Đảng được tăng cường trên cả 4 mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Tổ chức Đảng ngày càng phát triển, 100% thôn, khối phố có tổ chức đảng. Năm 1986, toàn Đảng bộ có 32 TCCS Đảng với 466 đảng viên, thì nay Đảng bộ huyện có 42 TCCS Đảng với 1.925 đảng viên. Cùng với chú trọng phát triển đảng viên mới, đã chỉ đạo thực hiện nghiêm túc và kiên quyết việc rà soát, sàng lọc đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không còn đủ tư cách. Chất lượng của tổ chức Đảng và đảng viên không ngừng được nâng lên. Năm 2020, về xếp loại TCCS có 14,29%  hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 59,52% hoàn thành tốt nhiệm vụ, 23,81% hoàn thành nhiệm vụ và 2,38% không hoàn thành nhiệm vụ; về đảng viên có 12,03% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, 80,57% hoàn thành tốt nhiệm vụ, 6,1% hoàn thành nhiệm vụ và 1,28% không hoàn thành nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ từ huyện đến cơ sở trưởng thành và từng bước được chuẩn hóa, trẻ hóa. Từ chỗ cán bộ cấp huyện có trình độ chuyên môn đại học, cao đẳng chỉ tính trên đầu ngón tay ở ngày đầu thành lập huyện thì nay đội ngũ cán bộ địa phương, nhất là cán bộ chủ chốt huyện và cơ sở đã được chuẩn hóa với 98,55% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện có trình độ đại học trở lên (trong đó thạc sỹ chiếm 24,64%) và 88,41% có trình độ cao cấp chính trị; 82,57% cán bộ, công chức cấp xã có trình độ đại học trở lên (trong đó thạc sỹ chiếm 4,98%) và 83,82% có trình độ trung cấp chính trị trở lên (trong đó 7,47% có trình độ cao cấp chính trị); tư duy quản lý, điều hành có nhiều đổi mới, năng động, nhạy bén, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
       2.12. Công tác đối ngoại được mở rộng, chú trọng đẩy mạnh các hoạt động giới thiệu, quảng bá, xúc tiến kêu gọi đầu tư trong nước và thực hiện thu hút viện trợ phi Chính phủ đảm bảo đúng chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Qua đó, đã huy động gần 05 tỷ đồng từ các tổ chức, cá nhân ngoài nước để đầu tư phát triển.
Những thành tựu đạt được trong 35 năm qua đã khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn, năng động của các cấp ủy Đảng, sự điều hành, quản lý chặt chẽ của chính quyền, sự phối hợp đồng bộ của Mặt trận, đoàn thể, đặc biệt sự đóng góp tích cực của nhân dân huyện nhà. Đây là tiền đề vững chắc, động lực thúc đẩy huyện tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa trong thời gian đến.
          II. Phương hướng chung và những mục tiêu chủ yếu đến năm 2025
       Giai đoạn 2020 - 2025, bên cạnh xu thế hợp tác cùng phát triển, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường; cạnh tranh lợi ích, điều chỉnh chiến lược, tranh giành vị thế giữa các cường quốc… sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh toàn cầu. Trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi triệt để; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh … sẽ là những khó khăn, thách thức, ảnh hưởng đến quá trình phát triển của đất nước.
       Đối với huyện ta, những năm tới, tình hình chính trị, xã hội tiếp tục ổn định. Những kết quả đạt được và kinh nghiệm sau gần 35 năm thành lập huyện cùng với truyền thống đoàn kết, nỗ lực, cố gắng của toàn Đảng bộ và Nhân dân sẽ là tiền đề, cơ hội thuận lợi để khai thác tốt mọi tiềm năng, thế mạnh cho phát triển. Tuy nhiên, quy mô kinh tế của huyện còn nhỏ; nguồn lực đầu tư hạn hẹp; khả năng thu hút vốn, nhân lực và xã hội hóa đầu tư cho phát triển còn khó khăn; chất lượng nguồn nhân lực và năng suất lao động còn thấp… sẽ là thách thức, trở ngại đối với sự phát triển của huyện trong 05 năm tới.
        Nghị quyết Đại hội Đảng khóa IX nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã xác định 26 chỉ tiêu chủ yếu, 10 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm; trong đó, tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ đột phá về “Xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực và cải thiện môi trường đầu tư. Tạo bước đột phá trong thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch và tăng thu ngân sáchnhằm đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới, bảo vệ môi trường và đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống Nhân dân, phấn đấu đến năm 2025 xây dựng Hiệp Đức cơ bản thành huyện Nông thôn mới.
Phát huy lợi thế về nông nghiệp và lâm nghiệp, huyện tập trung chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế mà mũi nhọn là phát triển lâm nghiệp đa mục tiêu là khâu đột phá, thúc đẩy trồng rừng gỗ lớn gắn với quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế (FSC) và trồng cây dược liệu dưới tán rừng; hình thành các vùng sản xuất chuyên canh, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao giá trị sản phẩm, tạo nguồn nguyên liệu bền vững cho công nghiệp chế biến, chủ lực là chế biến gỗ rừng trồng công nghệ cao, phấn đấu Hiệp Đức là trung tâm chế biến lâm sản của tỉnh. Kết hợp giữa lâm nghiệp với đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, trong đó, ưu tiên đầu tư phát triển chăn nuôi tập trung quy mô lớn, đảm bảo hiệu quả kinh tế và tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường.
          Tăng trưởng kinh tế - xã hội phải được thực hiện đồng bộ, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và phát triển đô thị làm động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng đầu tư kết nối hạ tầng đồng bộ, trọng điểm và có sức lan tỏa. Đầu tư xây dựng đường tránh và cầu Tân Bình để bố trí, sắp xếp các khu dân cư tập trung; quy hoạch các cụm công nghiệp và các vùng chuyên canh sản xuất. Mở mới tuyến đường từ đầu Dốc Tranh (xã Bình Lâm) kết nối với đường DT614 tại Trường Trung học cơ sở Chu Văn An để tạo điều kiện mở rộng hoạt động thương mại - dịch vụ khu vực Việt An. Nâng cấp, mở rộng tuyến DH5 (Tân Bình - Trà Linh) thành tuyến DT kết nối với đường Đông Trường Sơn, xây dựng mới các Cầu Co Co, Cầu Đá, Thầu Đâu… đảm bảo đi lại thông suốt trong mùa mưa lũ. Hoàn thiện, quản lý chặt chẽ quy hoạch đô thị gắn với quy hoạch nông thôn mới với tầm nhìn dài hạn; lấy đô thị là động lực dẫn dắt phát triển nông thôn. Phấn đấu đến năm 2025, thị trấn Tân Bình đạt tất cả các tiêu chí của đô thị loại V, Việt An và Sông Trà cơ bản đáp ứng các tiêu chí của đô thị.
Tập trung đầu tư xây dựng 03 xã (Quế Lưu, Thăng Phước và Sông Trà) về đích nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 và ưu tiên lồng ghép, bố trí các nguồn vốn để đầu tư các tiêu chí chưa đạt chuẩn của huyện nông thôn mới, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ đạt mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội đề ra.
         Kiên trì đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, trọng tâm là phát triển các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh trên lĩnh vực nông nghiệp và các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị. Khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, hợp tác xã, mô hình hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp. Đẩy mạnh thực hiện Chương trình “mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) gắn với xây dựng thương hiệu; các xã cần lựa chọn đúng sản phẩm chủ lực, có lợi thế về chi phí sản xuất và thị trường tiêu thụ. Khuyến khích thành lập các doanh nghiệp ở mọi ngành nghề, lĩnh vực theo quy định của pháp luật; tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đầu tư, sản xuất, kinh doanh ở các địa bàn khó khăn.
       Bên cạnh kinh tế, hoạt động văn hóa – xã hội cũng được quan tâm, đồng thời, tăng cường công tác bảo vệ môi trường; giữ vững kỷ cương, ổn định an ninh chính trị, đảm bảo quốc phòng - an ninh trong mọi tình huống; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, hướng đến xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng hệ thống y tế, năng lực kiểm soát, phòng chống dịch bệnh; xây dựng môi trường văn hóa xã hội lành mạnh, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên của các tầng lớp Nhân dân trong huyện; tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội trên địa bàn, giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.
         Làm tốt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn ví; cán bộ, đảng viên luôn tiên phong, gương mẫu, có tác phong, lề lối làm khoa học, dân chủ, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm; phát huy vai trò giám sát, tham gia góp ý của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân.
***
        Kỷ niệm ngày thành lập huyện là dịp để toàn Đảng bộ và nhân dân Hiệp Đức ôn lại những dấu ấn đậm nét của quê hương qua 35 năm xây dựng và trưởng thành; đồng thời ghi nhận những nỗ lực không ngừng, vượt qua cam go, thử thách gìn giữ thành quả cách mạng, xây dựng cuộc sống ngày một ấm no của Đảng bộ và nhân dân huyện nhà. Nhìn lại chặng đường đổi mới và những thành tựu trên các lĩnh vực với bao niềm tự hào; tri ân quá khứ, hướng tới tương lai, chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Hiệp Đức sẽ đoàn kết một lòng, chung tay góp sức, khắc phục những khó khăn, thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đảng bộ huyện lần thứ IX đã đề ra, xây dựng Hiệp Đức ngày càng phát triển bền vững, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
 

[1] Như cụm công nghiệp Tân An (thị trấn Tân Bình), cụm công nghiệp Nam An Sơn, Quế Thọ 2, Quế Thọ 3 ( xã Quế Thọ), cụm công nghiệp Bà Huỳnh (xã Sông Trà)
[2] Gồm sản phẩm Nấm Nhì Tây, sản phẩm tinh bột nghệ BNoong, Kẹo đậu dẻo Phước Hiệp Đức, Bột Ngũ cốc Hằng Moon và tinh bột mầm đậu nành Cô Sen.
[3] Bình quân toàn huyện đạt 14,8 tiêu chí/xã.
[4] Bình quân tiêu chí khu dân cư kiểu mẫu là 9 tiêu chí/xã.
[5] Toàn huyện có 419 Mẹ, trong đó, có 16 Mẹ còn sống.
[6] Năm 1986, ước tính tỷ lệ hộ nghèo đói xấp xỉ 90%, số lượng người thất nghiệp chiếm tỷ lệ cao, nay tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn xuống còn 8,83%.

Tác giả bài viết: Nguồn: Ban Tuyên giáo Huyện ủy

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây